Tài liệu kỹ thuật

Thu phí điện tử (Thu phí không dừng - ETC)

Thu phí điện tử (Thu phí không dừng - Electronic toll collection ETC) nhằm giảm thời gian lãng phí phải dừng lại tại trạm thu phí bằng cách Thu phí không dừng. ETC xác định xe được cho phép đi qua trong danh sách, phát cảnh báo với xe không được phép đi qua, Thu phí không dừng vào tài khoản chủ xe đã đăng ký mà không yêu cầu xe phải dừng lại. Đây là thành phấn chính của hệ thống giao thông thông minh.

Năm 1959, Nhà kinh tế đoạt giải Nobel Kinh tế học William Vickrey là người đầu tiên đề xuất một hệ thống thu phí điện tử cho Metropolitan Area Washington. Ông đề xuất rằng mỗi chiếc xe sẽ được trang bị một bộ phát sóng transponder. Tín hiệu được cá nhân hóa của transponder sẽ được ghi lại khi xe đi qua ngã tư, sau đó chuyển tiếp đến máy tính trung tâm, và máy tính tính toán hóa đơn thu phí xe dựa theo quãng đường và thời điểm tham gia giao thông. Thu phí không dừng đã được chuyển giao cho tư nhân đầu tư và quản lý trên đường cao tốc đô thị, nhằm cải thiện giảm tắc nghẽn giao thông tại một số khu vực đô thị để hạn chế ô tô.
Vào năm 1960 và 1970, thu phí lưu thông đã được thử nghiệm với bộ thu cố định lắp dưới xe và bộ đọc được lắp trên mặt đường cao tốc.

Tổng quan

Việc kiểm tra xe được thực hiện bằng camera giám sát và máy tính kiểm soát tần số phát sóng bộ phát đáp transponder được gắn ở cửa kính, cửa sổ xe để xác minh và thu phí. Hệ thống sẽ gửi thông báo thu phí hoặc vé phạt nếu xe đi qua mà không có tài khoản kích hoạt hoặc trả phí.

Công nghệ

Hệ thống Thu phí không dừng bao gồm bốn thành phần chính: nhận dạng xe tự động, phân loại xe tự động, xử lý giao dịch và xử lý vi phạm. 

Nhận dạng xe tự động (Automated vehicle identification)

Hệ thống nhận dạng xe tự động (AVI) quá trình xác định xe để thu phí. Chức năng chính trạm thu là ghi lại số lần đi qua của xe qua các cổng trạm thu phí. Nhiệm vụ tiếp theo là xác định khu vực xe đã lưu thông.

Thế hệ đầu tiên của nhận dạng xe tự động AVI sử dụng đầu đọc quang học và mã vạch gắn liền với mỗi xe. Hệ thống quang học chứng minh là có độ tin cậy đọc kém, đặc biệt là khi phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt và xe bẩn.

Hầu hết các hệ thống nhận dạng xe tự động hiện nay dựa vào công nghệ RFID, ăng ten tại cổng thu phí giao tiếp với thiết bị phát đáp transponder gắn trên xe qua giao tiếp  trên xe chuyên dụng thông qua giao thức Truyền thông Tầm gần (Short Range Communications  - DSRC). Thẻ RFID đã được chứng minh là có độ chính xác cao, áp dụng được ở đường cao tốc. Nhược điểm chính là chi phí do mỗi xe phải trang bị một bộ phát đáp transponder, ảnh hưởng đến chi phí áp dụng công nghệ, do cơ quan thu phí hoặc người dùng phải trả.

Giảm tránh phải trang bị bộ phát đáp, một số hệ thống sử dụng camera nhận dạng biển số tự động. Camera chụp hình ảnh của xe đi qua cổng thu phí, nhận dạng biển số xe để xác định chiếc xe. Việc này cho phép khách hàng sử dụng cổng tại trạm thu phí và không cần có trang bị hoặc đăng ký trước với cơ quan thu phí. Nhược điểm là phương pháp này có tỷ lệ sai số đáng kể, dẫn đến sai sót trong thanh toán và chi phí xử lý giao dịch (trong đó yêu cầu định vị và liên lạc với với khách hàng) có thể là đáng kể. Hệ thống kết hợp với thu phí thủ công có tỷ lệ lỗi ít hơn, nhưng đòi hỏi chi phí nhân công vẫn cao.

Một số khu vực thu phí có diện tích rộng làm việc lắp đặt cổng thu phí cố định không thực hiện được. Ví dụ như hệ thống thu phí xe tải ở Đức. Hệ thống này sử dụng hệ thống định vị toàn cầu định định vị vị trí xe qua đó thu phí Autobahn. Chi phí triển khai hệ thống này đến nay vẫn tăng cao và tốn kém hơn so với dự kiến.

Khi sử dụng điện thoại thông minh trở nên phổ biến hơn, một số công ty quản lý đường bộ đã chuyển sang các ứng dụng điện thoại di động để làm phương án thu phí tự động ít tốn kém. Ví dụ điển hình là  ứng dụng di động Alabama Freedom Pass, dùng cho công ty American Roads LLC. Ứng dụng giao tiếp trong thời gian thực với hệ thống cơ sở dữ liệu xử lý giao dịch để xác định và ghi nợ tài khoản khách hàng hoặc ghi hóa đơn thẻ tín dụng.

Tự động phân loại xe (Automated vehicle classification)

Tự động phân loại xe kết hợp chặt chẽ với Nhận dạng xe tự động (AVI). Hầu hết các công ty quản lý đường thu cước phí theo các loại xe khác nhau, vì thế cần phân loại xe qua cổng thu phí.

Phương pháp đơn giản nhất là lưu trường thông tin loại xe trong hồ sơ khách hàng, và dùng Nhận dạng xe tự động để xác định loại xe. Phương pháp này có chi phí thấp, nhưng hạn chế sử dụng, nhất là trong các trường hợp xe kéo theo rơ móc.

Hệ thống phức tạp hơn sử dụng cảm biển. Cảm biến cảm ứng lắp trên bề mặt đường xác định khoảng cách giữa các bánh xe, cung cấp thông tin sự xuất hiện của xe. Treadles đếm số bánh xe, cũng như phát hiện xe lốp đôi với xe lốp đơn. Light-curtain laser lazer ghi lại hình ảnh xe, phân biệt xe tải và xe kéo.

Xử lý giao dịch (Transaction processing)

Xử lý giao dịch liên kết với tài khoản khách hàng, tạo giao dịch thu phí và thanh toán vào tài khoản khách hàng, giải quyết khiếu nại. Đây là một "trung tâm dịch vụ khách hàng". Chức năng xử lý giao dịch tương tự như ngân hàng, thường các công ty thu phí ký hợp đồng xử lý giao dịch với ngân hàng.

Khách hàng có thể chọn trả sau, khi hóa đơn thu phí định kỳ được gửi đến khách hàng, hoặc là trả trước khách hàng phải có một số dư nhất định trong tài khoản sau đó hệ thống sẽ trừ dần. Hệ thống trả trước là phổ biến hơn, khi việc đòi nợ số tiền nhỏ phí cầu đường là không được kinh tế lắm. 

Xử lý vi phạm (Violation enforcement)

Hệ thống xử lí vi phạm (violation enforcement system - VES) làm giảm việc trốn vé, khi mà các trạm phu phí điện tử là mục tiêu hấp dẫn cho việc trốn vé. Một số phương pháp có thể được sử dụng để ngăn chặn các hành vi  trốn vé.

Trạm tuần tra cảnh sát là hiệu quả cao nhất. Các nước đều có khung pháp lý xử phạt việc trốn vé. Tuy nhiên chi phí cao cho trạm tuần tra cảnh sát làm hạn chế sử dụng biện pháp này. 

Hàng rào bằng barie chỉ mở cho các xe đã thanh toán phí. Khi có vi phạm, rào cản này sẽ đóng lại. Tuy nhiên rào cản này cũng làm các khách hàng hợp lệ, ở đây là đại đa số, phải chạy chậm lại, làm hạn chế lợi ích và năng lực của hệ thống Thu phí không dừng.

Nhận dạng biển số tự động, trong khí ít được sử dụng làm phương pháp nhận dạng xe, lại được sử dụng như biện pháp xử lý vi phạm chính. Trong hệ thống xử lý vi phạm, số lượng hình ảnh phải xử lý ít hơn nhiều so với trong trường hợp nhận dạng xe thường xuyên. Các ảnh biển số xe vi phạm có thể nhận dạng thủ công, làm độ chính xác tăng lên nhiều so với nhận dạng tự động. Tuy nhiên các khung pháp lý về xử lý vi phạm phải được tiến hành đồng bộ cho việc xử lý vi phạm này.